+++
AnKhoa
Cung VCD => Khí tán không tụ, khó thành hình, lập trường không vững.
Cần 2 điều kiện :
1. Bản cung có Trung tinh miếu vượng, có khả năng Tụ khí như Lộc Tồn, Kình Đà.
Hoả Linh không hợp vì là Đoản thọ tinh, khí hành Hoả thiên về thăng tán, càng bất lợi.
Kiếp Không cũng loại, sức tán khí của Kiếp Không còn mạnh hơn Hoả Linh nhiều vì nó đánh thẳng vào Nguyên khí, Hoả tiên thiên.
Tả Hữu Khôi Việt vốn là trợ tinh, có cát lành, nhưng không có tính Tụ khí. Xương Khúc văn tinh cũng vậy.
Lộc Tồn tuy không hợp lắm, vì Thổ tinh thiên về trợ giúp chứ không có lập trường mạnh, nhưng Thổ của Lộc Tồn cũng là tụ khí, cho nên vẫn hợp.
Kình Đà Bạch Hổ ... về cơ bản các Hung sát tinh hành Kim ở đất miếu vượng, khí Kim được tích súc ẩn hàm bên trong đều tạo ra một thế cục có Chính khí tại bản cung và hấp thụ được khí từ nơi khác.
2. Tam phương tứ chính cần có Không vong, hoặc đa Cát thiểu Hung.
Chính khí tại Bản cung cần được giữ, tam phương cần có không vong để kìm chế sức hút khí của các cung. Sát hung tinh có xu hướng lấy cắp khí mạnh hơn Cát tinh, Cát tinh về cơ bản có xu hướng hỗ trợ hơn lôi kéo. Cho nên đa Cát tinh là hợp.
Lưu ý, các "phản cách" có quy luật khá nghiêm ngặt, chỉ cần một điểm sai sẽ làm cả hệ thống sai. Cho nên nếu không đạt cả hai yếu tố trên, thì không thành cách.
Khi luận có thể quan sát thêm về Thần khí. Về cơ bản, Thần khí phải thuần và nội hàm bên trong. Nếu Thần khí tản mát, không súc tích, văn phong không có nét thanh nhã thì chưa đủ điều kiện "Thành cách". Cách thành hay phá không chỉ do Mệnh mà còn do Vận. Vận khí.
Thất Sát - Lục Mạch Thần Kiếm (Khái quát cơ bản về Lục sát tinh)
Tuesday, June 23, 2015
KimCa - Tuần Triệt và Cung Mệnh
Chào mọi người.
Theo quan điểm của Kim Ca thì Tử vi quả là một môn rất rất khó học, bởi vì suy cho cùng nguồn gốc của Tử vi là không rõ ràng, đã thế lại chia thành nhiều bè phái. Sách vở thì ngày càng nhiều, cao thủ thì ngày càng đông. Người không biết thì cố tỏ ra tinh thông hiểu biết, người biết thì thò thò thụt thụt cắt xén dấu đi cho con em đệ tử, thành thử hậu học không hiểu cái lý rõ ràng nên quy Tử vi là tà Đạo. Để làm sáng tỏ thêm một số vấn đề, hy vọng giúp một số người hiểu thêm và có niềm tin vào Tử vi. Nhân tiện đọc bài của anh thatsat thấy đề cập đến Tuần Triệt nhưng quá ngắn gọn và người đọc sẽ khó hình dung ra được. Kim Ca sẽ nói đến một yếu tố quan trọng của Tuần Triệt ở Cung Mệnh.
Đầu tiên là mệnh VCD và sau đó là mệnh có Chính Diệu. Bởi xét cho cùng thì người mệnh VCD là quan tâm hơn cả vấn đề này. Bởi có câu mệnh VCD không yểu cũng bần
Mệnh VCD đã được nhiều nhà Tử vi nghiên cứu và nghiệm lý, có người thì nói là nhà không nóc, nhưng có lẽ ít ai hiểu được bản chất thật sự của nó là như thế nào. Đầu tiên nói đến lý thuyết kinh điển về Chủ Khách, lấy Cung Mệnh làm Chủ, Tam phương Tứ chính làm Khách, mệnh Chủ cường hơn Khách thì thuận lợi, ngược lại mệnh Chủ nhược khách cường là gian nan. Khi mệnh VCD thì thiên di luôn có chính diệu, điều dễ dàng nhận thấy là Chủ nhược và Khách cường, khi Chủ nhược thì khả năng chống đỡ Sát Khí từ Tam Phương Tứ chính là kém đi rất nhiều, đó là yếu tố gây nên tai họa cho Mệnh VCD, hãy lấy ví dụ : Một người khỏe mạnh, cường tráng ( Chủ cường ) thì không sợ phong ba bão gió của xã hội ( Khách ), đi ngoài đường gặp cơn gió thấy cảm giác mát mẻ dễ chịu, khác với một người ốm yếu ( Chủ yếu ) vì sự biến động của xã hội thường cảm thấy mệt mỏi, đi ngoài đường gặp cơn gió bị cảm mạo, sinh bệnh chết ( Khách mạnh hơn Chủ ), cho nên nói mệnh VCD dễ yểu bởi vì Sát Khí từ Khách xung phá Mệnh quá nhiều. Đó là yếu tố quyết định có yểu hay không, nếu mệnh VCD mà Tam phương Tứ chính cát tinh hột tụ không bị sát tinh xâm phạm thì ta xét đến Cung Mệnh làm Chủ và Cung Đại vận làm Khách, ta lại dễ dàng nhận thấy nếu Tam phương Tứ chính cung Mệnh không có Sát tinh thì tất yếu sẽ hội tụ sát tinh ở Đại vận, Chủ Nhược Khách Cường và lại vẫn bị Sát Khí xâm phạm mạnh mẽ, nên dễ yểu khi vận đi qua Cung sát tinh hội tụ được Hóa Kỵ dẫn động.
Đó là nói đến cái yểu của người mệnh VCD, bây giờ xét đến cái bần của người VCD. Mệnh VCD Chủ nhược Khách cường thì Mệnh sẽ không làm Chủ được Tài Quan, dẫn đến bị động trong hoàn cảnh, gặp một vấn đề dù biết bản chất của nó là gì, nhưng không biết phải giải quyết thế nào, kinh doanh thì không hoạch tài, làm quan thì dễ bị chèn ép, ý chí thì kém, lại hay thay đổi cũng bởi Chủ nhược. Tất nhiên sẽ có người lý luận tôi không yểu cũng chả bần, nhưng ở đây yểu và bần là xét trung bình cho người mệnh VCD trong xã hội.
Qua những vấn đề được nói ở trên thì rõ ràng mệnh VCD cần Tuần Triệt để ngăn chặn Sát khí từ các cung Khách để tăng thọ, Đối với giàu hay nghèo thì lại phải xem những yếu tố khác nữa. bởi có câu mệnh VCD hội tam không phú quý khả kỳ. Nhưng với Tuần Triệt đã giúp cho bản cung được vững vàng hơn qua việc đánh chặn nguy hại từ bên ngoài. Đặc biệt mệnh VCD quan trọng xét Tứ hóa, và Chủ khách xem có được cát hay không, Khách đa cát tinh hội tụ và Tam hóa thì vẫn có thuận lợi. vì sao mệnh VCD cần hung tinh đắc địa ( kình, đà, hỏa, linh, không, kiếp, hình, hổ ) là bởi vì Hung tinh đắc địa có thể lấy lại sự cân bằng giữa Chủ và Khách. Cát tinh hay hao bại tinh quá yếu không đủ lực. Nhưng mệnh VCD có Tuần khác với mệnh VCD có triệt, điều này sẽ được nói ở phần sau.
Bây giờ ta xét đến người Mệnh có Chính Diệu. Một điều hiển nhiên đó là không có một Chính tinh nào đứng riêng lẽ với nhau, và thay vào đó là đi theo một tổ hợp. Ta lấy Ví dụ : người có mệnh Tử vi. Tử vi luôn tam hợp với Liêm Trinh và Vũ khúc. Theo lý thì Liêm Trinh hỏa ==> Tử vi Thổ ==> Vũ khúc Kim. Đó là sự lý sinh của Ngũ hành, Liêm trinh là Nguyên thần của Tử vi, khi Tử vi bị Tuần Triệt vì Nguyên thần Liêm trinh không sinh trợ được Tử vi, Tử vi hỏa tương thông mà sinh được Vũ khúc Kim, đẫn đến Khí Thổ ứ đọng, bế tắc. Vì vậy mệnh Tử vi Tuần Triệt là kém theo lý ngũ hành. Nhưng Tử vi gặp Tuần thì đỡ hơn gặp Triệt, bởi cái lý Âm Dương. theo Tượng thì ví Tử vi như là vua, Liêm Trinh và Vũ khúc là cận thần, Tử vi gặp Tuần Triệt được ví như Vua bị cô lập, không được trợ giúp của Quần thần, giống vua bù nhìn. lẽ dĩ nhiên là kém.
Tuần là được hiểu là Thời Thiên chưa tới, nơi có Địa mà không có Thiên, thiên chưa tới thì sao Địa hóa thành. Cho nên gọi là Không vong. Cũng vì có Địa mà không có Thiên nên Tuần bản chất mang tính Âm. Đối nghịch với Triệt mang tính Dương, điều dễ thấy là nhiều người luận Triệt là chặt chém, Tướng Triệt là tướng mất đầu, Mã triệt là Mã què, âu cũng là do tính Dương của Triệt. Tử vi Dương ngại gặp Tuần hơn Triệt. Tuần tác dụng mạnh lên Tứ hóa, vòng lộc tồn, xét theo Toàn không cách thì Tuần đắc cách hơn là Triệt. Triệt tác dụng mạnh lên sao an theo giờ, ngày, tháng và vòng Thái Tuế. Tuần chế Địa kiếp mạnh hơn Triệt, ngược lại Triệt chế Địa không mạnh hơn Tuần. Tuần chế địa kiếp và Triệt chế Địa không kém hơn vì cái lý cộng hưởng. và cũng bởi cái lý Địa không mang tính Âm, Địa kiếp mang tính Dương.
Cụ Thiên Lương cho rằng, Tuần Triệt hóa giải nhau ở Đại vận, tức là mệnh Tuần đến vận gặp Triệt thì sẽ được hóa giải. Điều này là có lý của Cụ. Xét Tuần Âm và Triệt Dương, thì Tuần Triệt sẽ kìm chế nhau ở Vận, do đó khả năng của Tuần Triệt ở Đại vận đã giảm đi nhiều. Nhưng không phải là sẽ mất đi Tuần Triệt, giống như Không Kiếp gặp nhau ở Tứ góc thành Âm Dương hợp nhất mà đắc địa, đắc địa thì ít hại hơn là hãm.
Lý Xuất Không Điền Thật. Tuần Triệt được hiểu là Thời chưa tới, khi có Lưu Thái Tuế đến thì đó chính là Thời tới, mà thời tới thì Không Vong sẽ không còn, thời tới khi Lưu Thái tuế xung cung Tuần Triệt hoặc ở ngay cung có Tuần Triệt. Xuất không được hiểu là Không vong đã mất, nếu mệnh có Tuần Triệt thì Lưu Thái Tuế đến mệnh hoặc ở Di xung mệnh, khi Không vong đã mất thì những gì còn lại ở Cung mệnh chính là bản chất thực sự vốn có của nó, như tổ hợp sao phá hay hợp cách...từ đó sẽ thấy được sự thật giả về giàu nghèo, thọ yểu...( Điền Thật ). Do vậy đối với mệnh VCD rất cần chú ý đến vận có Lưu thái tuế xung mệnh, vì khi đó đã mất Không vong, nếu hạn nhập năm đó cũng bị kỵ xung thì quyết là năm đại họa. Đối với người có Chính diệu mà tổ hợp sao đi hợp cách và tốt thì năm đó là năm thăng tiến tài lộc.
Lý giải thêm về Thiên tướng sợ gặp Tuần Triệt, Thiên tướng và Phá quân luôn ở thế Đối Xung ( không phải Đối Cung ). Tương và Phá kìm hãm lẫn nhau, lực tương tác của Phá lên Tướng ngang bằng với lực của Tướng lên Phá. Nhưng khi có Tuần Triệt thì điều đó đã bị phá vỡ, đầu tiên phải nói đến Phùng Phủ khán Tướng, xem Thiên Tướng phải xét đến thiên Phủ, khi Thiên tướng bị Tuần Triệt thì Phủ không thể giúp được Tướng. Đó là đặt Tướng vào thế yếu khi so sánh với Phá, do vậy cấu trúc Đối xung bị phá vỡ, đặt Thiên tướng vào thế yếu. Lại xét phân đối cung lưu chi thể dụngng ), nguời mệnh Thiên tướng thì lấy Thiên Tướng làm Thể, Phá Quân làm Dụng, Tướng ở thế yếu thì Thể bị Dụng khắc theo lý đối xung, vì vậy mà nói Thiên tướng sợ gặp Tuần Triệt, vì lý Thiên tướng mang tính Âm nên sợ gặp Triệt hơn Tuần. Có lẽ vậy mà Tướng Triệt là tướng mất đầu chăng? lẽ Triệt chặt chém âu cũng rất có lý ( tính Dương )
ps : nếu có thời gian Kim Ca sẽ viết về Tuần Triệt tương tác lên Cục số và Vòng Trường sinh cục, vốn là một phần của chủ đề 'ý nghĩa vòng trường sinh' nhưng chưa viết được.
Theo quan điểm của Kim Ca thì Tử vi quả là một môn rất rất khó học, bởi vì suy cho cùng nguồn gốc của Tử vi là không rõ ràng, đã thế lại chia thành nhiều bè phái. Sách vở thì ngày càng nhiều, cao thủ thì ngày càng đông. Người không biết thì cố tỏ ra tinh thông hiểu biết, người biết thì thò thò thụt thụt cắt xén dấu đi cho con em đệ tử, thành thử hậu học không hiểu cái lý rõ ràng nên quy Tử vi là tà Đạo. Để làm sáng tỏ thêm một số vấn đề, hy vọng giúp một số người hiểu thêm và có niềm tin vào Tử vi. Nhân tiện đọc bài của anh thatsat thấy đề cập đến Tuần Triệt nhưng quá ngắn gọn và người đọc sẽ khó hình dung ra được. Kim Ca sẽ nói đến một yếu tố quan trọng của Tuần Triệt ở Cung Mệnh.
Đầu tiên là mệnh VCD và sau đó là mệnh có Chính Diệu. Bởi xét cho cùng thì người mệnh VCD là quan tâm hơn cả vấn đề này. Bởi có câu mệnh VCD không yểu cũng bần
Mệnh VCD đã được nhiều nhà Tử vi nghiên cứu và nghiệm lý, có người thì nói là nhà không nóc, nhưng có lẽ ít ai hiểu được bản chất thật sự của nó là như thế nào. Đầu tiên nói đến lý thuyết kinh điển về Chủ Khách, lấy Cung Mệnh làm Chủ, Tam phương Tứ chính làm Khách, mệnh Chủ cường hơn Khách thì thuận lợi, ngược lại mệnh Chủ nhược khách cường là gian nan. Khi mệnh VCD thì thiên di luôn có chính diệu, điều dễ dàng nhận thấy là Chủ nhược và Khách cường, khi Chủ nhược thì khả năng chống đỡ Sát Khí từ Tam Phương Tứ chính là kém đi rất nhiều, đó là yếu tố gây nên tai họa cho Mệnh VCD, hãy lấy ví dụ : Một người khỏe mạnh, cường tráng ( Chủ cường ) thì không sợ phong ba bão gió của xã hội ( Khách ), đi ngoài đường gặp cơn gió thấy cảm giác mát mẻ dễ chịu, khác với một người ốm yếu ( Chủ yếu ) vì sự biến động của xã hội thường cảm thấy mệt mỏi, đi ngoài đường gặp cơn gió bị cảm mạo, sinh bệnh chết ( Khách mạnh hơn Chủ ), cho nên nói mệnh VCD dễ yểu bởi vì Sát Khí từ Khách xung phá Mệnh quá nhiều. Đó là yếu tố quyết định có yểu hay không, nếu mệnh VCD mà Tam phương Tứ chính cát tinh hột tụ không bị sát tinh xâm phạm thì ta xét đến Cung Mệnh làm Chủ và Cung Đại vận làm Khách, ta lại dễ dàng nhận thấy nếu Tam phương Tứ chính cung Mệnh không có Sát tinh thì tất yếu sẽ hội tụ sát tinh ở Đại vận, Chủ Nhược Khách Cường và lại vẫn bị Sát Khí xâm phạm mạnh mẽ, nên dễ yểu khi vận đi qua Cung sát tinh hội tụ được Hóa Kỵ dẫn động.
Đó là nói đến cái yểu của người mệnh VCD, bây giờ xét đến cái bần của người VCD. Mệnh VCD Chủ nhược Khách cường thì Mệnh sẽ không làm Chủ được Tài Quan, dẫn đến bị động trong hoàn cảnh, gặp một vấn đề dù biết bản chất của nó là gì, nhưng không biết phải giải quyết thế nào, kinh doanh thì không hoạch tài, làm quan thì dễ bị chèn ép, ý chí thì kém, lại hay thay đổi cũng bởi Chủ nhược. Tất nhiên sẽ có người lý luận tôi không yểu cũng chả bần, nhưng ở đây yểu và bần là xét trung bình cho người mệnh VCD trong xã hội.
Qua những vấn đề được nói ở trên thì rõ ràng mệnh VCD cần Tuần Triệt để ngăn chặn Sát khí từ các cung Khách để tăng thọ, Đối với giàu hay nghèo thì lại phải xem những yếu tố khác nữa. bởi có câu mệnh VCD hội tam không phú quý khả kỳ. Nhưng với Tuần Triệt đã giúp cho bản cung được vững vàng hơn qua việc đánh chặn nguy hại từ bên ngoài. Đặc biệt mệnh VCD quan trọng xét Tứ hóa, và Chủ khách xem có được cát hay không, Khách đa cát tinh hội tụ và Tam hóa thì vẫn có thuận lợi. vì sao mệnh VCD cần hung tinh đắc địa ( kình, đà, hỏa, linh, không, kiếp, hình, hổ ) là bởi vì Hung tinh đắc địa có thể lấy lại sự cân bằng giữa Chủ và Khách. Cát tinh hay hao bại tinh quá yếu không đủ lực. Nhưng mệnh VCD có Tuần khác với mệnh VCD có triệt, điều này sẽ được nói ở phần sau.
Bây giờ ta xét đến người Mệnh có Chính Diệu. Một điều hiển nhiên đó là không có một Chính tinh nào đứng riêng lẽ với nhau, và thay vào đó là đi theo một tổ hợp. Ta lấy Ví dụ : người có mệnh Tử vi. Tử vi luôn tam hợp với Liêm Trinh và Vũ khúc. Theo lý thì Liêm Trinh hỏa ==> Tử vi Thổ ==> Vũ khúc Kim. Đó là sự lý sinh của Ngũ hành, Liêm trinh là Nguyên thần của Tử vi, khi Tử vi bị Tuần Triệt vì Nguyên thần Liêm trinh không sinh trợ được Tử vi, Tử vi hỏa tương thông mà sinh được Vũ khúc Kim, đẫn đến Khí Thổ ứ đọng, bế tắc. Vì vậy mệnh Tử vi Tuần Triệt là kém theo lý ngũ hành. Nhưng Tử vi gặp Tuần thì đỡ hơn gặp Triệt, bởi cái lý Âm Dương. theo Tượng thì ví Tử vi như là vua, Liêm Trinh và Vũ khúc là cận thần, Tử vi gặp Tuần Triệt được ví như Vua bị cô lập, không được trợ giúp của Quần thần, giống vua bù nhìn. lẽ dĩ nhiên là kém.
Tuần là được hiểu là Thời Thiên chưa tới, nơi có Địa mà không có Thiên, thiên chưa tới thì sao Địa hóa thành. Cho nên gọi là Không vong. Cũng vì có Địa mà không có Thiên nên Tuần bản chất mang tính Âm. Đối nghịch với Triệt mang tính Dương, điều dễ thấy là nhiều người luận Triệt là chặt chém, Tướng Triệt là tướng mất đầu, Mã triệt là Mã què, âu cũng là do tính Dương của Triệt. Tử vi Dương ngại gặp Tuần hơn Triệt. Tuần tác dụng mạnh lên Tứ hóa, vòng lộc tồn, xét theo Toàn không cách thì Tuần đắc cách hơn là Triệt. Triệt tác dụng mạnh lên sao an theo giờ, ngày, tháng và vòng Thái Tuế. Tuần chế Địa kiếp mạnh hơn Triệt, ngược lại Triệt chế Địa không mạnh hơn Tuần. Tuần chế địa kiếp và Triệt chế Địa không kém hơn vì cái lý cộng hưởng. và cũng bởi cái lý Địa không mang tính Âm, Địa kiếp mang tính Dương.
Cụ Thiên Lương cho rằng, Tuần Triệt hóa giải nhau ở Đại vận, tức là mệnh Tuần đến vận gặp Triệt thì sẽ được hóa giải. Điều này là có lý của Cụ. Xét Tuần Âm và Triệt Dương, thì Tuần Triệt sẽ kìm chế nhau ở Vận, do đó khả năng của Tuần Triệt ở Đại vận đã giảm đi nhiều. Nhưng không phải là sẽ mất đi Tuần Triệt, giống như Không Kiếp gặp nhau ở Tứ góc thành Âm Dương hợp nhất mà đắc địa, đắc địa thì ít hại hơn là hãm.
Lý Xuất Không Điền Thật. Tuần Triệt được hiểu là Thời chưa tới, khi có Lưu Thái Tuế đến thì đó chính là Thời tới, mà thời tới thì Không Vong sẽ không còn, thời tới khi Lưu Thái tuế xung cung Tuần Triệt hoặc ở ngay cung có Tuần Triệt. Xuất không được hiểu là Không vong đã mất, nếu mệnh có Tuần Triệt thì Lưu Thái Tuế đến mệnh hoặc ở Di xung mệnh, khi Không vong đã mất thì những gì còn lại ở Cung mệnh chính là bản chất thực sự vốn có của nó, như tổ hợp sao phá hay hợp cách...từ đó sẽ thấy được sự thật giả về giàu nghèo, thọ yểu...( Điền Thật ). Do vậy đối với mệnh VCD rất cần chú ý đến vận có Lưu thái tuế xung mệnh, vì khi đó đã mất Không vong, nếu hạn nhập năm đó cũng bị kỵ xung thì quyết là năm đại họa. Đối với người có Chính diệu mà tổ hợp sao đi hợp cách và tốt thì năm đó là năm thăng tiến tài lộc.
Lý giải thêm về Thiên tướng sợ gặp Tuần Triệt, Thiên tướng và Phá quân luôn ở thế Đối Xung ( không phải Đối Cung ). Tương và Phá kìm hãm lẫn nhau, lực tương tác của Phá lên Tướng ngang bằng với lực của Tướng lên Phá. Nhưng khi có Tuần Triệt thì điều đó đã bị phá vỡ, đầu tiên phải nói đến Phùng Phủ khán Tướng, xem Thiên Tướng phải xét đến thiên Phủ, khi Thiên tướng bị Tuần Triệt thì Phủ không thể giúp được Tướng. Đó là đặt Tướng vào thế yếu khi so sánh với Phá, do vậy cấu trúc Đối xung bị phá vỡ, đặt Thiên tướng vào thế yếu. Lại xét phân đối cung lưu chi thể dụngng ), nguời mệnh Thiên tướng thì lấy Thiên Tướng làm Thể, Phá Quân làm Dụng, Tướng ở thế yếu thì Thể bị Dụng khắc theo lý đối xung, vì vậy mà nói Thiên tướng sợ gặp Tuần Triệt, vì lý Thiên tướng mang tính Âm nên sợ gặp Triệt hơn Tuần. Có lẽ vậy mà Tướng Triệt là tướng mất đầu chăng? lẽ Triệt chặt chém âu cũng rất có lý ( tính Dương )
ps : nếu có thời gian Kim Ca sẽ viết về Tuần Triệt tương tác lên Cục số và Vòng Trường sinh cục, vốn là một phần của chủ đề 'ý nghĩa vòng trường sinh' nhưng chưa viết được.
Thất Sát - Lục Mạch Thần Kiếm - Phần 08 (tiếp theo)
+++
KimCa
Kim không phải là cứng, lạnh hay thu lại. mà Kim là Kim, người xưa dùng 5 loại phổ biến nhất trong tự nhiên là kim loại, nước, lửa, hỏa, đất để diễn tượng. 5 loại trên là Hình. mà mượn Hình để diễn Tượng. Ví dụ Sắt nóng chảy thành chất lỏng, chất lỏng ở đây vẫn là Sắt, nhưng lỏng giống như nuớc vậy nên theo Tượng ( tượng trưng ) thì giống với nước nhất nên quy về Tượng là Thủy. Cần chú ý ở đây là Thủy mang ý nghĩa tượng trưng, chứ không phải là thực tế theo quan điểm là nước, nước cũng là Thủy, mà Sắt nung chảy cũng là Thủy, đó là ý nghĩa mượn Hình diễn Tượng, hay còn gọi là tượng trưng thì đúng hơn. Thủy hiểu nôm na theo nghĩa chung trong thuyết Ngũ hành là chất lỏng chứ không phải đơn giản Thủy là nước. Kim không phải là sắt, thế Phổi là sắt hay sao? phế theo ngũ tạng mang hành Kim.
ngũ hành vố là khái niệm mang ý nghĩa tượng trưng nhằm diễn tả quá trình hoạt động của vật chất. Cũng như Âm Dương vậy, Âm Dương trong Đông Phương học là tượng trưng cho 2 mặt đối lập với nhau, như Sáng tối, dài ngắn, cao thấp, trái phải, nóng lạnh, thanh trọc...một vật được gọi là dài khi so sánh với một vật khác, nhưng khi so sánh với một vật khác nữa thì lại là ngắn.
như các ngón tay, ngón tay trỏ được gọi là dài so với ngón tay cái vì vậy ngón trỏ trong tương quan với ngón cái là Dương còn ngón Cái là Âm. Nhưng Ngón Trỏ lại ngắn hơn so với ngón giữa nên theo quy chiếu thì ngón Trỏ là Âm so và ngón giữa là Dương. Do vậy Âm Dương ở đây là định tính, dùng để 2 sánh 2 thứ đối lập nhau. Cũng từ ví dụ ngón tay trên mà có thể nói Dương có thể chuyển thành Âm hay Âm chuyển thành Dương.
nói như vậy để cho thấy Âm Dương trong Đông Phương Học không phải là điện tích hay notron, electron như ở phương Tây. nếu học Đông Phương học mà dùng kiến thức phương Tây để lý giải là không hiểu gì về Âm Dương Ngũ hành. nói cách khác Âm Dương Ngũ hành giống như triết lý vậy.
Trong tương quan Thiên Địa thì Khí Dương đại diện cho khí Trời, khí Âm đại diện cho Đất. Dương cực ở Ngọ sinh Hỏa, Âm cực ở Tý sinh Thủy, Dương thăng ở Dần sinh Phong, Phong sinh Mộc, Âm hạ ở Đoài tản mát và khô táo sinh Kim.
Âm Dương là tiền đề của Ngũ hành. Kim có tính khô táo, có thể nóng chảy. lấy Kim loại làm đại diện cho Kim
Đàn ông là Dương, đàn bà là Âm nhưng không phải Dương là đàn ông, Âm là đàn bà. Bởi vì sự vật hiện tượng chỉ có thể suy ra Âm Dương xét theo tương quan so sánh chứ không phải là tương đương. theo toán học thì => là khác với = .Âm Dương là 2 mặt đối lập, 2 mặt đối lập lại tương tựa nhau. Muốn biết có phải là đàn bà không thì phải so sánh với đàn ông. Vậy Âm Dương là đối lập nhưng dựa vào nhau để tồn tại và để phân biệt nhau.
+++
Thatsat
Đại ca. Chào mừng đại ca trở lại với công lực bao trùm cả thiên hà. Dưới ngòi bút tài hoa của đại ca thì những thứ vô thường như cát bụi cũng đành ngoan ngoãn xếp vào hàng lối, chứ đừng nói tới 108 sao nhỏ nhoi.
Trong màn kiếm ảnh ngập trời của đại ca, đệ xin chen vào một ý nhỏ. Tất cả những gì thuộc về kinh điển mãi mãi là kinh điển. Nhưng trong thực dụng xem tử vi, những sao liệt kê ở trên lại không cho biết chắc chắn chuyện yêu đương hay qhtd có xảy ra hay không, trừ phi, trừ phi có mặt hai sao. Hai sao này có tác dụng kích phát toàn bộ cách cục ngoại tình, gian dâm, rồi tình cảm bất chính. Thiếu hai sao này, mọi chuyện có thể chỉ dừng lại ở việc cảm mến thư từ chứ không tạo ra hậu quả hữu hình. Hai sao này sách vở không tài nào có được, chỉ có thể kinh qua trăm trận mà đúc rút thành. Nay đại ca lại giấu đi mất, phải chăng muốn cái thói tầm chương trích cú ngấm sâu vào cả thế hệ sau này. Vậy chẳng phải là đáng tiếc lắm ư ?
KimCa
Kim không phải là cứng, lạnh hay thu lại. mà Kim là Kim, người xưa dùng 5 loại phổ biến nhất trong tự nhiên là kim loại, nước, lửa, hỏa, đất để diễn tượng. 5 loại trên là Hình. mà mượn Hình để diễn Tượng. Ví dụ Sắt nóng chảy thành chất lỏng, chất lỏng ở đây vẫn là Sắt, nhưng lỏng giống như nuớc vậy nên theo Tượng ( tượng trưng ) thì giống với nước nhất nên quy về Tượng là Thủy. Cần chú ý ở đây là Thủy mang ý nghĩa tượng trưng, chứ không phải là thực tế theo quan điểm là nước, nước cũng là Thủy, mà Sắt nung chảy cũng là Thủy, đó là ý nghĩa mượn Hình diễn Tượng, hay còn gọi là tượng trưng thì đúng hơn. Thủy hiểu nôm na theo nghĩa chung trong thuyết Ngũ hành là chất lỏng chứ không phải đơn giản Thủy là nước. Kim không phải là sắt, thế Phổi là sắt hay sao? phế theo ngũ tạng mang hành Kim.
ngũ hành vố là khái niệm mang ý nghĩa tượng trưng nhằm diễn tả quá trình hoạt động của vật chất. Cũng như Âm Dương vậy, Âm Dương trong Đông Phương học là tượng trưng cho 2 mặt đối lập với nhau, như Sáng tối, dài ngắn, cao thấp, trái phải, nóng lạnh, thanh trọc...một vật được gọi là dài khi so sánh với một vật khác, nhưng khi so sánh với một vật khác nữa thì lại là ngắn.
như các ngón tay, ngón tay trỏ được gọi là dài so với ngón tay cái vì vậy ngón trỏ trong tương quan với ngón cái là Dương còn ngón Cái là Âm. Nhưng Ngón Trỏ lại ngắn hơn so với ngón giữa nên theo quy chiếu thì ngón Trỏ là Âm so và ngón giữa là Dương. Do vậy Âm Dương ở đây là định tính, dùng để 2 sánh 2 thứ đối lập nhau. Cũng từ ví dụ ngón tay trên mà có thể nói Dương có thể chuyển thành Âm hay Âm chuyển thành Dương.
nói như vậy để cho thấy Âm Dương trong Đông Phương Học không phải là điện tích hay notron, electron như ở phương Tây. nếu học Đông Phương học mà dùng kiến thức phương Tây để lý giải là không hiểu gì về Âm Dương Ngũ hành. nói cách khác Âm Dương Ngũ hành giống như triết lý vậy.
Trong tương quan Thiên Địa thì Khí Dương đại diện cho khí Trời, khí Âm đại diện cho Đất. Dương cực ở Ngọ sinh Hỏa, Âm cực ở Tý sinh Thủy, Dương thăng ở Dần sinh Phong, Phong sinh Mộc, Âm hạ ở Đoài tản mát và khô táo sinh Kim.
Âm Dương là tiền đề của Ngũ hành. Kim có tính khô táo, có thể nóng chảy. lấy Kim loại làm đại diện cho Kim
Đàn ông là Dương, đàn bà là Âm nhưng không phải Dương là đàn ông, Âm là đàn bà. Bởi vì sự vật hiện tượng chỉ có thể suy ra Âm Dương xét theo tương quan so sánh chứ không phải là tương đương. theo toán học thì => là khác với = .Âm Dương là 2 mặt đối lập, 2 mặt đối lập lại tương tựa nhau. Muốn biết có phải là đàn bà không thì phải so sánh với đàn ông. Vậy Âm Dương là đối lập nhưng dựa vào nhau để tồn tại và để phân biệt nhau.
+++
Thatsat
thatsat, on 17/06/2015 - 00:58, said:
Đào Hoa Hồng Loan gặp nhiều sao tốt được coi là tốt, Đào Hồng gặp nhiều sao xấu được coi là xấu. Giúp bạn hiểu sắc đẹp có hai mặt. Bạn lưu ý cách cục Đào Hồng. Đào Hồng chỉ chủ tình dục khi và chỉ khi gặp Thai. Đào Hồng chỉ chủ ngoại tình khi gặp Phục Binh. Còn nếu không gặp hai sao trên Đào Hồng chỉ mang ý nghĩa đẹp sặc sỡ, duyên nói chung. Đừng mới thấy Đào Hồng đã phán bừa. Đào Hồng Không Kiếp không có tình dục mà là đại họa vì khi đó Đào là Kiếp Sát còn Hồng Loan là máu. Đào Diêu chủ dâm hơn chủ dục.
Đại ca. Chào mừng đại ca trở lại với công lực bao trùm cả thiên hà. Dưới ngòi bút tài hoa của đại ca thì những thứ vô thường như cát bụi cũng đành ngoan ngoãn xếp vào hàng lối, chứ đừng nói tới 108 sao nhỏ nhoi.
Trong màn kiếm ảnh ngập trời của đại ca, đệ xin chen vào một ý nhỏ. Tất cả những gì thuộc về kinh điển mãi mãi là kinh điển. Nhưng trong thực dụng xem tử vi, những sao liệt kê ở trên lại không cho biết chắc chắn chuyện yêu đương hay qhtd có xảy ra hay không, trừ phi, trừ phi có mặt hai sao. Hai sao này có tác dụng kích phát toàn bộ cách cục ngoại tình, gian dâm, rồi tình cảm bất chính. Thiếu hai sao này, mọi chuyện có thể chỉ dừng lại ở việc cảm mến thư từ chứ không tạo ra hậu quả hữu hình. Hai sao này sách vở không tài nào có được, chỉ có thể kinh qua trăm trận mà đúc rút thành. Nay đại ca lại giấu đi mất, phải chăng muốn cái thói tầm chương trích cú ngấm sâu vào cả thế hệ sau này. Vậy chẳng phải là đáng tiếc lắm ư ?
Thất Sát - Lục Mạch Thần Kiếm - Phần 08 (tiếp theo)
+++
pytago07
Một trạm dừng chân để sơ lược, hệ thống lại lý thuyết
Theo cuốn tử vi nghiệm lý của cụ Thiên Lương
1/ Âm Dương
2/ Tuần-Triệt
a/ Triệt
- Triệt là triệt lộ không vong, là phong tỏa khép kín cắt đứt liên lạc, là cái thắng trước của xe. Cái "không" của triệt là tan nát, biến thể thành không.
b/ Tuần
- Tuần đóng ở cả 6 vị trí.
- Tuần là tuần trung không vong, là cây cầu nối tiếp giữa 2 giai đoạn, là kìm hãm bớt từ từ, lâu dài, cầm chừng, là cái thắng sau của xe. Cái "không" của tuần là trung gian kìm chế, không cho phép quá trớn.
Theo cuốn Tử Vi Áo Bí của Việt Niêm Tử
1/ Âm Dương
- Cuốn này thì đề cập đến âm dương nam nữ và chiều đi của vận hạn:
+ Âm(-) nam(+), dương(+) nữ(-) vận trình đi ngược chiều kim đồng hồ.
+ Dương(+) nam(+), âm(-) nữ(-) vận trình đi thuận chiều kim đồng hồ.
+ Quy định về vấn đề nghịch lý, thuận lý. Thuận thì cộng hưởng, nghịch thì chiết giảm.
2/ Tuần-Triệt
- Triệt thuộc kim đới thủy, là triệt trảm, chém đứt ra từng mảnh, ngăn chặn không cho liên lạc.
- Tuần thuộc hỏa đới mộc, là vây hãm lại, bao chặt lấy.
- Sự phân chia ảnh hưởng: Dương hành tam thất, âm quy nhị bát.
- Thời gian: Tam thập niên tiền quan triệt, tam thập niên hậu khán tuần
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Những quan niệm rất đỗi bình thường trong cuộc sống thường ngày:
- Nam là dương, nữ là âm
- Dư dả là dương, thiếu thốn là âm ( có tiền thì +$, vay nợ thì bị -$)
- Âm nhu dương cương
- Ánh sáng lớn (thái dương) làm chủ ban ngày, ánh sáng nhỏ hơn (thái âm) làm chủ ban đêm
- Trong một nguyên tử luôn có proton(+), electron(-) và nơtron không mang điện
- Cốc nước đầy nước thì gọi nó là dương, thiếu nước thì gọi là âm
pytago07
Một trạm dừng chân để sơ lược, hệ thống lại lý thuyết
Theo cuốn tử vi nghiệm lý của cụ Thiên Lương
1/ Âm Dương

(Theo cụ Thiên Lương, âm là lý thuyết, dương là thực hành)
2/ Tuần-Triệt
a/ Triệt

b/ Tuần
- Tuần đóng ở cả 6 vị trí.
- Tuần là tuần trung không vong, là cây cầu nối tiếp giữa 2 giai đoạn, là kìm hãm bớt từ từ, lâu dài, cầm chừng, là cái thắng sau của xe. Cái "không" của tuần là trung gian kìm chế, không cho phép quá trớn.
Theo cuốn Tử Vi Áo Bí của Việt Niêm Tử
1/ Âm Dương
- Cuốn này thì đề cập đến âm dương nam nữ và chiều đi của vận hạn:
+ Âm(-) nam(+), dương(+) nữ(-) vận trình đi ngược chiều kim đồng hồ.
+ Dương(+) nam(+), âm(-) nữ(-) vận trình đi thuận chiều kim đồng hồ.
+ Quy định về vấn đề nghịch lý, thuận lý. Thuận thì cộng hưởng, nghịch thì chiết giảm.
2/ Tuần-Triệt
- Triệt thuộc kim đới thủy, là triệt trảm, chém đứt ra từng mảnh, ngăn chặn không cho liên lạc.
- Tuần thuộc hỏa đới mộc, là vây hãm lại, bao chặt lấy.
- Sự phân chia ảnh hưởng: Dương hành tam thất, âm quy nhị bát.
- Thời gian: Tam thập niên tiền quan triệt, tam thập niên hậu khán tuần
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Những quan niệm rất đỗi bình thường trong cuộc sống thường ngày:
- Nam là dương, nữ là âm
- Dư dả là dương, thiếu thốn là âm ( có tiền thì +$, vay nợ thì bị -$)
- Âm nhu dương cương
- Ánh sáng lớn (thái dương) làm chủ ban ngày, ánh sáng nhỏ hơn (thái âm) làm chủ ban đêm
- Trong một nguyên tử luôn có proton(+), electron(-) và nơtron không mang điện
- Cốc nước đầy nước thì gọi nó là dương, thiếu nước thì gọi là âm
Tuesday, June 16, 2015
Thất Sát - Lục Mạch Thần Kiếm - Phần 08 (tiếp theo)
+++
tutruongdado
Thái Thứ Lang viết:
Kình Dương, Đà La - Âm Kim (đới Hỏa).
Hỏa Tinh, Linh Tinh - Âm Hỏa.
Địa Không, Địa Kiếp - Hỏa.
Lộc Tồn: Dương Thổ (đới Thủy).
Như vậy trong TVĐSTB, mặc định Thái Thứ Lang trọng Âm Dương, nhưng định hướng dùng âm dương để chỉ ra tính chất của sao. Vì dùng để tính chất của sao, nên TTL không quan tâm việc khi nó là âm, thì nó cặp với dương nào, và khi nó là dương, nó cặp với âm nào.
Trong khi, nhiều người xét âm dương kiểu khác TTL, lại cứ cố tìm đủ đôi cặp, với lý có âm thì phải có dương.
Lộc Tồn chính thời nên đặt là Dương, Kình Đà trái thời nên đặt là Âm.
Trong cặp Kình Đà, Kình Dương sớm nên đặt là Dương. Đà La muộn nên đặt là Âm.
Trong cặp Hỏa Linh, Hỏa Tinh đặt là Dương, Linh Tinh nên đặt là âm.
Trong cặp Không Kiếp, Địa Không đặt là Dương, Địa Kiếp đặt là âm.
Đặt vậy cũng không sai, nhưng hơi thừa và không cần thiết. Ví như cặp Hỏa Linh thì âm dương với cái gì. Nếu như theo 1 chứng minh khá cầu kì của bác VĐTT, nó để quân bình với Khôi Việt và Thiên Trù. Đến Khôi Việt thì lại để quân bình với Hóa Kỵ.... Xét 1 lúc thành loạn, thà đừng xét âm dương.
Không cần thiết ở chỗ nữa là: xét âm dương như vây, thì nó chỉ âm dương với nhau mà thôi. Kình Dương xét là dương, khi so với Đà La, so với thằng khác thì nó không gọi là Dương nữa. So với Lộc Tồn, thì nó phải cặp thêm em Đà La, rồi nhận là âm.
Vậy thì cứ theo như Thái Thứ Lang, thuần nhất chỉ dùng Âm Dương trong việc định tính chất sao. Nếu nó Dương, nó thể hiện chất Dương. Nếu nó Âm, nó thể hiện chất Âm.
Kình Đà đều là tiểu nhân, đều thiếu quang minh chính đại. Thái Thứ Lang đặt là Âm Kim.
Hỏa Linh Thái Thứ Lang đặt là Âm Hỏa. Khi xét tính chất của sao, thì dùng Âm Hỏa thôi, khỏi phải phân ra Hỏa dương Linh âm.
Không Kiếp Thái Thứ Lang không phân Âm hay Dương Hỏa. Cho thấy tính chất Âm Dương không rõ ràng. Tính lý nó vậy, biết làm sao. Cứ cố gò ép về 1 bên, thì nhiều khi không giải thích được nó thể hiện tính chất bên kia.
------------
Nghĩ về Lục Sát.
Nhiều ông cứ bảo rằng: mệnh Lục Sát có tứ hóa làm nên cách mạng, làm chuyện kinh thiên động địa, mới là sướng, mới là hay.
Nói chứ khổ thí mồ. Lao đao lận đận bao nhiêu lâu, long đong vất vả. Được thành quả thì cũng mất rất nhiều thứ.
Nếu nói sướng, thì phải như mấy vị thái tử, được cho đi du học. Học chán về cất làm quan, đi lên ầm ầm kìa mới đáng nói.
Là như mấy vị chủ tịch, tổng giám đốc tuổi đời chưa đến 40, tiến sĩ MBA ầm ầm kìa, mới đáng nói.
Đời ai chẳng thích như thế. Nên chính cách mà tránh được sát tinh vẫn là number 1. Sinh ra đã có nền tảng, đi lên thuận lợi. Bọn mày cứ lao đao vất vả đi, t*o học kinh nghiệm từ bọn mày.
Sau đó mới đến mấy ông chính cách, tứ hóa mà gặp sát tinh. Ừ thì cũng nên đại nghiệp đó, nhưng vất vả, lao đao, đời cũng chìm nổi không ít.
Có những tư duy, tính cách, phải là người có tiền, có quyền, có địa vị, mới có được. Còn người nghèo dù tích lũy mấy cũng không có được. Mà thậm chí có những tính cách, phong thái, phải người giàu vài đời, mới có được. Người từ tay trắng đi lên, tích lũy mấy cũng chẳng có được.
Các bạn đọc cuốn sách "vì sao bạn nghèo" đi. Nó không dạy cách làm giàu, nó chỉ ra điểm khác biệt trong tính cách, suy nghĩ của người giàu và người nghèo, để chỉ ra rằng: muốn giàu ư, khó lắm.
tutruongdado
Thái Thứ Lang viết:
Kình Dương, Đà La - Âm Kim (đới Hỏa).
Hỏa Tinh, Linh Tinh - Âm Hỏa.
Địa Không, Địa Kiếp - Hỏa.
Lộc Tồn: Dương Thổ (đới Thủy).
Như vậy trong TVĐSTB, mặc định Thái Thứ Lang trọng Âm Dương, nhưng định hướng dùng âm dương để chỉ ra tính chất của sao. Vì dùng để tính chất của sao, nên TTL không quan tâm việc khi nó là âm, thì nó cặp với dương nào, và khi nó là dương, nó cặp với âm nào.
Trong khi, nhiều người xét âm dương kiểu khác TTL, lại cứ cố tìm đủ đôi cặp, với lý có âm thì phải có dương.
Lộc Tồn chính thời nên đặt là Dương, Kình Đà trái thời nên đặt là Âm.
Trong cặp Kình Đà, Kình Dương sớm nên đặt là Dương. Đà La muộn nên đặt là Âm.
Trong cặp Hỏa Linh, Hỏa Tinh đặt là Dương, Linh Tinh nên đặt là âm.
Trong cặp Không Kiếp, Địa Không đặt là Dương, Địa Kiếp đặt là âm.
Đặt vậy cũng không sai, nhưng hơi thừa và không cần thiết. Ví như cặp Hỏa Linh thì âm dương với cái gì. Nếu như theo 1 chứng minh khá cầu kì của bác VĐTT, nó để quân bình với Khôi Việt và Thiên Trù. Đến Khôi Việt thì lại để quân bình với Hóa Kỵ.... Xét 1 lúc thành loạn, thà đừng xét âm dương.
Không cần thiết ở chỗ nữa là: xét âm dương như vây, thì nó chỉ âm dương với nhau mà thôi. Kình Dương xét là dương, khi so với Đà La, so với thằng khác thì nó không gọi là Dương nữa. So với Lộc Tồn, thì nó phải cặp thêm em Đà La, rồi nhận là âm.
Vậy thì cứ theo như Thái Thứ Lang, thuần nhất chỉ dùng Âm Dương trong việc định tính chất sao. Nếu nó Dương, nó thể hiện chất Dương. Nếu nó Âm, nó thể hiện chất Âm.
Kình Đà đều là tiểu nhân, đều thiếu quang minh chính đại. Thái Thứ Lang đặt là Âm Kim.
Hỏa Linh Thái Thứ Lang đặt là Âm Hỏa. Khi xét tính chất của sao, thì dùng Âm Hỏa thôi, khỏi phải phân ra Hỏa dương Linh âm.
Không Kiếp Thái Thứ Lang không phân Âm hay Dương Hỏa. Cho thấy tính chất Âm Dương không rõ ràng. Tính lý nó vậy, biết làm sao. Cứ cố gò ép về 1 bên, thì nhiều khi không giải thích được nó thể hiện tính chất bên kia.
------------
Nghĩ về Lục Sát.
Nhiều ông cứ bảo rằng: mệnh Lục Sát có tứ hóa làm nên cách mạng, làm chuyện kinh thiên động địa, mới là sướng, mới là hay.
Nói chứ khổ thí mồ. Lao đao lận đận bao nhiêu lâu, long đong vất vả. Được thành quả thì cũng mất rất nhiều thứ.
Nếu nói sướng, thì phải như mấy vị thái tử, được cho đi du học. Học chán về cất làm quan, đi lên ầm ầm kìa mới đáng nói.
Là như mấy vị chủ tịch, tổng giám đốc tuổi đời chưa đến 40, tiến sĩ MBA ầm ầm kìa, mới đáng nói.
Đời ai chẳng thích như thế. Nên chính cách mà tránh được sát tinh vẫn là number 1. Sinh ra đã có nền tảng, đi lên thuận lợi. Bọn mày cứ lao đao vất vả đi, t*o học kinh nghiệm từ bọn mày.
Sau đó mới đến mấy ông chính cách, tứ hóa mà gặp sát tinh. Ừ thì cũng nên đại nghiệp đó, nhưng vất vả, lao đao, đời cũng chìm nổi không ít.
Có những tư duy, tính cách, phải là người có tiền, có quyền, có địa vị, mới có được. Còn người nghèo dù tích lũy mấy cũng không có được. Mà thậm chí có những tính cách, phong thái, phải người giàu vài đời, mới có được. Người từ tay trắng đi lên, tích lũy mấy cũng chẳng có được.
Các bạn đọc cuốn sách "vì sao bạn nghèo" đi. Nó không dạy cách làm giàu, nó chỉ ra điểm khác biệt trong tính cách, suy nghĩ của người giàu và người nghèo, để chỉ ra rằng: muốn giàu ư, khó lắm.
Thất Sát - Lục Mạch Thần Kiếm - Phần 08
Với chính tinh hãm địa, hoặc cung VCD, nhận định ban đầu là xấu. Nhưng khi có Tuần Triệt án ngữ, cung đó được coi là tốt, nhưng bạn chú ý, người xưa mô tả cái tốt này rất hay. Cái tốt này không thô lỗ chóng vánh ngay tắp lự, mà sách viết "trước khó sau dễ" tức tốt lên từ từ. Tuần Triệt cải hóa cung nó tác dụng một cách từ từ. Qua đó cũng hiểu cho hoàn cảnh của chính tinh miếu địa gặp Tuần Triệt, bạn có thể luận trước tốt sau xấu, xấu đi từ từ. Nhưng luôn luôn có hạn chế cho cung có Tuần Triệt như "trước khó kiếm tiền sau dễ, nhưng không thể giàu có lớn được". Khi Tuần Triệt đóng cung phụ mẫu. Thì nhận định tốt xấu của cung để đoán định sự giàu nghèo sang hèn của cha mẹ của cha mẹ nhưng dù tốt hay xấu thì cũng khắc và xa song thân. Đó cũng là mẫu số chung khi Tuần Triệt đóng cung lục thân.
Ngoại trừ một trường hợp, đó là cung VCD. Cung VCD có ba mức tốt xấu. Tệ nhất là VCD, tốt hơn là VCD có Tuần Triệt án ngữ, đẹp nhất là VCD vừa có Tuần Triệt án ngữ vừa có Nhật Nguyệt sáng sủa xung chiếu hoặc hợp chiếu. Tuần Triệt lúc đó được hiểu như lực lượng câu hút ánh sáng đồng thời giữ ánh sáng lại cho ngôi nhà trống. Cách này vào mệnh quan thì sách khen quý hiển, vào cung tài điền thì khen giàu. Nôm na, bạn hiểu nó là tốt. Tuần Triệt với cung VCD quan trọng hơn nhiều cát tinh, nếu cung phúc VCD không có tuần triệt án ngữ hay Tam Không hội họp thì dù có nhiều sao sáng sủa tốt đẹp cũng coi là kém phúc thì bạn hiểu ưu tiên của cách cục.
Tính chất thời gian của Tuần Triệt giống tính chất thời gian của sát tinh. Bạn có chú ý, sát tinh miếu địa chỉ tốt ban đầu, càng về sau càng xấu. Không những sát tinh, kể cả bại tinh đắc địa cũng có cùng tính chất. Tại sao tử vi lại áp đặt tính chất này lên sát bại tinh mà không phải ngược lại là trước xấu sau tốt. Có lẽ phương Đông trọng hậu hơn. Cái gì tốt nhưng phải bền mới cho là tốt, cái gì xấu nhưng thoáng qua thì họ cho là thử thách. Cả đời khổ thế nào cũng được, nhưng cuối đời tốt đẹp coi như cuộc đời có hậu, hơn nhiều cuộc đời sướng trước khổ sau. Hoặc có thể đó là quy luật của vũ trụ này mà người phương Đông khám phá ra, cái gì thuộc về bản chất sẽ bộc lộ sau cùng. Cho nên bản chất của sát tinh vẫn là xấu, không thể thay đổi. Ngược lại, với Thái Dương hãm địa, sách cho rằng càng về già càng tốt hơn.
Phải chăng, người xưa coi miếu hãm là cái vỏ ngoài, còn bản chất tinh đẩu là bên trong. Đây là điểm khá thú vị của tử vi nhưng người mới học thường bỏ qua.
------------------------------------------------------------------------------------------------------
Trong tử vi, có những sao được ấn định là tốt hay xấu, nhưng có những sao tùy thuộc vào sao mà nó đi cùng, nếu đi với nhiều sao xấu thì nó xấu, đi với nhiều sao tốt thì nó tốt. Một dạng như phù thịnh không phù suy. Bạn hiểu sao đó không quyết định tính cát hung của cách cục, mà phụ thuộc vào sao nó đi kèm. Ví dụ Tả Hữu là số đông. Tả Hữu Không Kiếp: đông bọn trộm cướp. Tả Hữu Hồng Đào: đông người tình, không hề xấu, khi đóng vào cung Nô thì Thái Thứ Lang còn cho rằng các nhân tình còn hòa thuận với nhau. Tả Hữu Tướng Binh: nhiều binh tướng thế. Rõ ràng Tả Hữu chỉ nói lên số nhiều, mang tính trung gian, cát hung là do nhiều cái gì. Nhưng nghịch lý, sách lại cho rằng Tả Hữu là cát tinh. Giúp bạn hiểu số đông có hai mặt.
Hóa Quyền là một sao tương tự, đi với nhiều sao cứu giải Hóa Quyền mang nghĩa cứu giải, cứu giải nhanh chóng bất ngờ. Hóa Quyền đi với sao tác họa thì làm cho họa đến nhanh hơn mạnh hơn.
Phục Binh cũng vậy, không có chủ kiến, đi với nhiều sao tốt thì tận tụy làm tốt. Đi với nhiều sao xấu thì cũng không ngại làm hại. Giúp bạn hiểu binh quyền có hai mặt.
Xương Khúc Khôi Việt khi đi cùng cát tinh cung Nô được khuyên là nên gần người học thức. XKKV khi đi cùng nhiều sao xấu ở cung nô được khuyên là nên tránh xa người có học thức. Giúp bạn hiểu học thức và danh giá có hai mặt.
Đào Hoa Hồng Loan gặp nhiều sao tốt được coi là tốt, Đào Hồng gặp nhiều sao xấu được coi là xấu. Giúp bạn hiểu sắc đẹp có hai mặt. Bạn lưu ý cách cục Đào Hồng. Đào Hồng chỉ chủ tình dục khi và chỉ khi gặp Thai. Đào Hồng chỉ chủ ngoại tình khi gặp Phục Binh. Còn nếu không gặp hai sao trên Đào Hồng chỉ mang ý nghĩa đẹp sặc sỡ, duyên nói chung. Đừng mới thấy Đào Hồng đã phán bừa. Đào Hồng Không Kiếp không có tình dục mà là đại họa vì khi đó Đào là Kiếp Sát còn Hồng Loan là máu. Đào Diêu chủ dâm hơn chủ dục. Thai Phục Vượng Tướng là cách cục quan hệ tình dục lén lút, không có Đào Hồng đi kèm thì có khả năng không có tình yêu hoặc có yêu nhưng không bền. Còn Đào Hồng đi cùng tam ám Diêu Đà Kỵ mới có sự dối lừa, vì tam ám chủ dối lừa, nếu không có Đà Kỵ thì không có sự dối lừa nhau.
Cô Quả đi với nhiều sao tốt thì được hưởng tốt. Cô Quả đi với nhiều sao xấu thì chịu xấu. Giúp bạn hiểu Cô Quả có hai mặt, điển hình khi vua cha chết vua con lên nối ngôi, biết nói đó là vui hay buồn ? Cô Quả Đẩu Quân đi với nhiều sao tốt thì muộn con, đi với nhiều sao xấu thì vô sinh.
Lục cát hay lục sát khi đi cùng nhiều sao mờ ám xấu xa đều có mẫu số chung là xấu. Thậm chí cái xấu của lục cát còn tệ hơn cả lục sát. Xương Khúc xấu, không nên gần người có học. Khôi Việt xấu không nên gần kẻ danh giả. Tả Hữu xấu, coi chừng bị hãm hại tập thể. Còn lục cát và lục sát khi đi cùng nhiều sao tốt có điểm khác biệt là với lục sát luôn bị cảnh báo họa phúc may rủi đi kèm, và khó bền. Họ hàng bạn bè có khá giả thì cũng li tán, không có cái tốt vẹn toàn đó là điểm chung của lục sát. Lục sát đóng bất cứ cung lục thân nào cũng tổn hại tới tình cảm. Miếu hãm của lục sát khi đó chỉ dùng để luận sự sang hèn của cung đó mà thôi. Điều này cho thấy sự triệt để trong quan điểm lục sát và không vong phá hại tình thân của người xưa.
Ngoại trừ một trường hợp, đó là cung VCD. Cung VCD có ba mức tốt xấu. Tệ nhất là VCD, tốt hơn là VCD có Tuần Triệt án ngữ, đẹp nhất là VCD vừa có Tuần Triệt án ngữ vừa có Nhật Nguyệt sáng sủa xung chiếu hoặc hợp chiếu. Tuần Triệt lúc đó được hiểu như lực lượng câu hút ánh sáng đồng thời giữ ánh sáng lại cho ngôi nhà trống. Cách này vào mệnh quan thì sách khen quý hiển, vào cung tài điền thì khen giàu. Nôm na, bạn hiểu nó là tốt. Tuần Triệt với cung VCD quan trọng hơn nhiều cát tinh, nếu cung phúc VCD không có tuần triệt án ngữ hay Tam Không hội họp thì dù có nhiều sao sáng sủa tốt đẹp cũng coi là kém phúc thì bạn hiểu ưu tiên của cách cục.
Tính chất thời gian của Tuần Triệt giống tính chất thời gian của sát tinh. Bạn có chú ý, sát tinh miếu địa chỉ tốt ban đầu, càng về sau càng xấu. Không những sát tinh, kể cả bại tinh đắc địa cũng có cùng tính chất. Tại sao tử vi lại áp đặt tính chất này lên sát bại tinh mà không phải ngược lại là trước xấu sau tốt. Có lẽ phương Đông trọng hậu hơn. Cái gì tốt nhưng phải bền mới cho là tốt, cái gì xấu nhưng thoáng qua thì họ cho là thử thách. Cả đời khổ thế nào cũng được, nhưng cuối đời tốt đẹp coi như cuộc đời có hậu, hơn nhiều cuộc đời sướng trước khổ sau. Hoặc có thể đó là quy luật của vũ trụ này mà người phương Đông khám phá ra, cái gì thuộc về bản chất sẽ bộc lộ sau cùng. Cho nên bản chất của sát tinh vẫn là xấu, không thể thay đổi. Ngược lại, với Thái Dương hãm địa, sách cho rằng càng về già càng tốt hơn.
Phải chăng, người xưa coi miếu hãm là cái vỏ ngoài, còn bản chất tinh đẩu là bên trong. Đây là điểm khá thú vị của tử vi nhưng người mới học thường bỏ qua.
------------------------------------------------------------------------------------------------------
Trong tử vi, có những sao được ấn định là tốt hay xấu, nhưng có những sao tùy thuộc vào sao mà nó đi cùng, nếu đi với nhiều sao xấu thì nó xấu, đi với nhiều sao tốt thì nó tốt. Một dạng như phù thịnh không phù suy. Bạn hiểu sao đó không quyết định tính cát hung của cách cục, mà phụ thuộc vào sao nó đi kèm. Ví dụ Tả Hữu là số đông. Tả Hữu Không Kiếp: đông bọn trộm cướp. Tả Hữu Hồng Đào: đông người tình, không hề xấu, khi đóng vào cung Nô thì Thái Thứ Lang còn cho rằng các nhân tình còn hòa thuận với nhau. Tả Hữu Tướng Binh: nhiều binh tướng thế. Rõ ràng Tả Hữu chỉ nói lên số nhiều, mang tính trung gian, cát hung là do nhiều cái gì. Nhưng nghịch lý, sách lại cho rằng Tả Hữu là cát tinh. Giúp bạn hiểu số đông có hai mặt.
Hóa Quyền là một sao tương tự, đi với nhiều sao cứu giải Hóa Quyền mang nghĩa cứu giải, cứu giải nhanh chóng bất ngờ. Hóa Quyền đi với sao tác họa thì làm cho họa đến nhanh hơn mạnh hơn.
Phục Binh cũng vậy, không có chủ kiến, đi với nhiều sao tốt thì tận tụy làm tốt. Đi với nhiều sao xấu thì cũng không ngại làm hại. Giúp bạn hiểu binh quyền có hai mặt.
Xương Khúc Khôi Việt khi đi cùng cát tinh cung Nô được khuyên là nên gần người học thức. XKKV khi đi cùng nhiều sao xấu ở cung nô được khuyên là nên tránh xa người có học thức. Giúp bạn hiểu học thức và danh giá có hai mặt.
Đào Hoa Hồng Loan gặp nhiều sao tốt được coi là tốt, Đào Hồng gặp nhiều sao xấu được coi là xấu. Giúp bạn hiểu sắc đẹp có hai mặt. Bạn lưu ý cách cục Đào Hồng. Đào Hồng chỉ chủ tình dục khi và chỉ khi gặp Thai. Đào Hồng chỉ chủ ngoại tình khi gặp Phục Binh. Còn nếu không gặp hai sao trên Đào Hồng chỉ mang ý nghĩa đẹp sặc sỡ, duyên nói chung. Đừng mới thấy Đào Hồng đã phán bừa. Đào Hồng Không Kiếp không có tình dục mà là đại họa vì khi đó Đào là Kiếp Sát còn Hồng Loan là máu. Đào Diêu chủ dâm hơn chủ dục. Thai Phục Vượng Tướng là cách cục quan hệ tình dục lén lút, không có Đào Hồng đi kèm thì có khả năng không có tình yêu hoặc có yêu nhưng không bền. Còn Đào Hồng đi cùng tam ám Diêu Đà Kỵ mới có sự dối lừa, vì tam ám chủ dối lừa, nếu không có Đà Kỵ thì không có sự dối lừa nhau.
Cô Quả đi với nhiều sao tốt thì được hưởng tốt. Cô Quả đi với nhiều sao xấu thì chịu xấu. Giúp bạn hiểu Cô Quả có hai mặt, điển hình khi vua cha chết vua con lên nối ngôi, biết nói đó là vui hay buồn ? Cô Quả Đẩu Quân đi với nhiều sao tốt thì muộn con, đi với nhiều sao xấu thì vô sinh.
Lục cát hay lục sát khi đi cùng nhiều sao mờ ám xấu xa đều có mẫu số chung là xấu. Thậm chí cái xấu của lục cát còn tệ hơn cả lục sát. Xương Khúc xấu, không nên gần người có học. Khôi Việt xấu không nên gần kẻ danh giả. Tả Hữu xấu, coi chừng bị hãm hại tập thể. Còn lục cát và lục sát khi đi cùng nhiều sao tốt có điểm khác biệt là với lục sát luôn bị cảnh báo họa phúc may rủi đi kèm, và khó bền. Họ hàng bạn bè có khá giả thì cũng li tán, không có cái tốt vẹn toàn đó là điểm chung của lục sát. Lục sát đóng bất cứ cung lục thân nào cũng tổn hại tới tình cảm. Miếu hãm của lục sát khi đó chỉ dùng để luận sự sang hèn của cung đó mà thôi. Điều này cho thấy sự triệt để trong quan điểm lục sát và không vong phá hại tình thân của người xưa.
Thất Sát - Lục Mạch Thần Kiếm - Phần 07
Sách Tử Vi Đẩu Số Tân Biên, mục XVIII Phụ Luận về Mệnh Thân, phần D. Phi thường cách của Thái Thứ Lang cho rằng "Mệnh thân lại được thêm sự phù tá của các sao đắc địa: Tả Hữu Khôi Việt Xương Khúc Long Phượng Hồng Đào Khoa Lộc và Kình Đà Không Kiếp Hình Hổ." Tức là tác giả cũng thừa nhận trong các cường cung phải có sát tinh thậm chí Thiên Hình. Tuy tác giả không kể đến Hỏa Linh, nhưng theo tính toán trên ta thấy có Hỏa Linh. Có nghĩa là, quan điểm về phi thường cách không phải không có sát hình tinh. Mà quan trọng nhất lá số phải có bộ khung vững chắc, sau đó điểm xuyết sát tinh vào mới đúng là phi thường cách. Có lẽ phi thường cách khác Thượng cách ở điểm này. Nhưng nhấn mạnh lại là tác giả yêu cầu các sát tinh phải đắc địa, không được hãm địa. Thái Thứ Lang không nhắc tới tuần triệt nhưng theo tính toán ta biết Tuần Triệt án ngữ chặt chẽ ở tam hợp cung an thân.
Phi thường cách này chưa biết có thật hay không, nhưng qua đó thấy được quan điểm hết sức nhất quán, thậm chí cực đoan của Thái Thứ Lang về miếu hãm. Miếu là tốt, còn hãm là xấu. Hợp hay không hợp hậu xét.
Cách cục Tham Hỏa cung vậy, luôn nhắc nhở là Tham Hỏa tứ mộ miếu địa, và phải đồng cung (Quý cách thứ 9, trong mục XX Phân Cục). Nếu để ý điều này, có lẽ bớt được câu hỏi Liêm Tham tị hợi gặp Hỏa đồng cung có tính không, hay Hỏa Tinh chiếu hợp có tính không.
Trung cách được nhấn mạnh là mệnh cục tương khắc, âm dương nghịch lý, và không có Khoa Quyền Lộc. Nhưng âm dương nghịch lý rồi thì ta lưu ý là không có cách cục Long Phượng. Cho nên những cách cục TPVT Long Phượng, SPT Long Phượng, Đồng Long Phượng, CNĐL Long Phượng là cách ảo, không hề có. Như cách k. Thiên Đồng hội Long Phượng Hình Diêu Hồng Đào là cách ảo vì Long Phượng không bao giờ đi cùng Hồng Đào, cho dù muốn mệnh Long Phượng, thân Hồng Đào cũng không có. Nên đành phải hiểu là Long Phượng hoặc Hồng Đào.
Lại nói về quan điểm sát tinh miếu địa có tốt không. Thì ngay lập tức có ví dụ. Trong 27 Quý Cục, thì cục số 20 là Kình Dương nhập miếu. Điều kiện rất ngặt nghèo Kình tứ mộ của tuổi tứ mộ. Ta hiểu là Kình Dương miếu địa cùng Thái Tuế đồng cung. Cho thấy, với sát tinh miếu địa thì đánh giá cũng không hề xấu. Nhưng không hề có Quý Cục Đà La nhập miếu, cho thấy rõ ràng có sự ưu ái giữa sao dương và sao âm. Trong 27 quý cục thì có 2 cục có sự góp mặt của 2 sát tinh thì đều là sát tinh dương Hỏa Tinh và Kình Dương. Ẩn tàng ý tứ cho rằng, chỉ có sao dương mới có thể tạo nên phản cách mạnh mẽ. Như người nghèo thì phải thông minh và mạnh mẽ mới có thể vươn lên nắm giữ vận mệnh của chính mình và sơn hà. Nếu cứ thuận theo ý của kẻ trên thì mãi mãi không thoát khỏi kiếp nghèo. Con ông cháu cha sinh ra sẵn nong sẵn né như Bạc Qua Qua nói bừa cũng thành hay, chỉ cần làm người tử tế biết điều đã có tầm vóc như anh hùng. Còn những đứa con thảo dã, thậm chí da đen như ngoại trưởng Rice nếu không nỗ lực gấp nhiều lần người khác thì cả đời không ngóc lên được.
Trong phần phụ luận còn nói thêm, với Quý cục số 9 Tham Hỏa tương phùng tứ mộ, số 20 Kình Dương nhập miếu tứ mộ, và số 16 Tham Vũ sửu hoặc Thiên Phủ mùi giáp Nhật Nguyệt thì không e ngại sát tinh, nếu có cũng không giảm sự tốt đẹp, mà nếu sát đinh sáng sủa tốt đẹp thì lại càng rực rỡ. Tất nhiên, quý cục không thể vắng bóng Khoa Quyền Lộc.
Tiếp tục so về âm dương của sát tinh cho bạn thấy rõ phản cách của sát tinh dương. Mệnh chủ tư tưởng, thân chủ thành động. Tính của mệnh gần Địa Không hơn Địa Kiếp vì Địa Không cũng chủ tư tưởng hơn hành động. Địa Kiếp thì chủ hành động hơn tư tưởng. Cho nên Địa Không hợp mệnh còn Địa Kiếp hợp thân.
Nếu Mệnh Không Thân Kiếp, có thể coi là thuận lý âm dương và có phản cách cho trường hợp VCD song Hao (tức tránh Lộc Tồn) thì học ít nhưng sự nghiệp hiển hách.
Nhưng với mệnh Kiếp thân Không tức nghịch lý âm dương thì khá khẩm nhất của cách cục là khi Tử Vi hoặc Nhật Nguyệt sáng sủa tọa thủ mới được no cơm ấm áo, chứ không có cơ phản cách hiển hách như trường hợp trên.
Cho thấy xét đóan vẫn lấy cung mệnh làm chủ yếu so với thân. Hơn nữa, khi Địa Không đóng mệnh còn hi vọng, chứ Địa Kiếp đóng mệnh thì chỉ mong lắm đế tinh đóng vào để được trung bình là khá rồi. Cho thấy đặc tính kỳ lạ sau: phải chăng Tử Vi Nhật Nguyệt không ngại Kiếp mà ngại Không ?
Trường hợp mệnh Không thân Kiếp mang bóng dáng của mệnh Triệt thân Tuần khi có thể cùng cung Vô Chính Diệu tạo thành phản cách. Nhưng mệnh Tuần thân Triệt thì không hề cùng cung Vô Chính Diệu tạo ra phản cách. Phải chăng Vô Chính Diệu thích Triệt hơn Tuần ? Mệnh Không thân Kiếp không hợp Đồng Lương. Mệnh Triệt thân Tuần cũng không hợp Cơ Nguyệt Đồng Lương mà hợp VCD. Điều này càng khẳng định sự tương ứng giữa Mệnh Không thân Kiếp và mệnh Triệt thân Tuần. Phải chăng Triệt hợp với Không còn Tuần hợp với Kiếp ? Vậy mà trước nay tôi vẫn hi vọng Tuần hợp với Địa Không hơn, còn Triệt hợp với Địa Kiếp hơn. Tuần Triệt, sao nào dương sao nào âm ?
(Bài này lưu ý quý độc giả nào công lực thấp không nên đọc để tránh tẩu hỏa)
Tiếp tục, bàn về tính âm dương của Tuần Triệt.
Phủ ngại Tuần, Tướng ngại Triệt. Tất nhiên, cả hai chẳng ưa gì Tuần Triệt, ở đây chỉ cân phân cụ thể hơn.
Địa Không ngại Tuần, Địa Kiếp ngại Triệt.
Giữa Phủ với Tướng thì Phủ dương, Tướng âm. Giữa Không với Kiếp thì Không dương đi nghịch, Kiếp âm đi thuận. Nếu vậy, Tuần phá dương còn Triệt phá âm. Chúng phá đúng theo tính âm dương của chúng. Điều này tương hợp với quan điểm của Việt Viêm Tử rằng Tuần Triệt đóng hai cung nhưng tác dụng lên hai cung là khác nhau. Tuy nhiên không tương đồng vì ở đây đang so sánh Tuần với Triệt.
Giờ quay lại xem vì sao Mệnh Tuần thân Triệt cần Cơ Nguyệt Đồng Lương. Vì Tuần (lấy mệnh làm chủ) dương không phá bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương âm. Nhưng mệnh Triệt âm thì cần Vô Chính Diệu chứ không hợp Cơ Nguyệt Đồng Lương. Như các bai trên ta hiểu Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Tham không sợ Kỵ mà chỉ sợ Tuần Triệt, còn Cơ Nguyệt Đồng Lương ngược lại chỉ sợ Kỵ mà chẳng ngại Tuần Triệt. Cho nên ở đây mới cho Cơ Nguyệt Đồng Lương làm cứu cánh cho trường hợp Triệt Tuần. Chẳng qua khi mệnh Triệt, nếu có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì âm phá âm nên hỏng cách, đành phải dùng VCD.
Nhưng với mệnh Không thân Kiếp, Địa Không dương chẳng hợp Cơ Nguyệt Đồng Lương âm cho nên mệnh Không thân Kiếp không hợp Cơ Nguyệt Đồng Lương vì dương chẳng hợp âm.
Đến đây, thấy rõ một quy luật nữa của tử vi là tương tác tinh đẩu với tinh đẩu cần cùng tính âm dương mới cho hiệu quả rõ rệt. Nhưng tương tác của Không Vong thì ngược lại. Cho nên, nói Tuần Triệt phá sao nào đó thì đúng. Nhưng nói Không Kiếp phá sao nào đó thì không đúng, mà là Không Kiếp chẳng hợp sao đó.
Lý âm dương bày ra rất chặt chẽ.
Bạn vào topic, đến giờ bạn hiểu vì sao cung quan của Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm VCD có Địa Không gặp Triệt lại đắc cách. Triệt chứ không phải Tuần. Trước đây, bạn xem nháo nhào, bạn viết sách, bạn thánh phán, nhưng bạn không cân phân nổi tính âm dương. Mà không ai nhắc đến nó cho bạn hiểu khi bài viết này ra đời. Nó là yếu quyết thượng thừa của âm dương. Tuần thuộc dương, bạn vẽ dấu cộng, Tuần là cộng. Triệt là âm, bạn vẽ dấu trừ, Triệt là trừ. Phía trên bạn hiểu VCD hợp Triệt hơn Tuần, đến giờ bạn hiểu thêm Triệt là đóng, vì đóng nên ngôi nhà trống vô chính diệu đã có cửa không còn trống nữa. Qua đó, bạn hiểu thêm Tuần là mở. Nghe sao giống Triệt là tách ra, Tuần là gom vào, mà lại rất hợp lý. Bạn hiểu vì sao lá số Lý Tiểu Long cung mệnh có Địa Không gặp Triệt.
Bạn vào topic bạn Không đồng ý, nhưng bạn không ghét vì Địa Không Hóa Kỵ khi sao dương gặp sao âm. Bạn vào topic bạn không hiểu, nhưng lại đố kỵ vì Địa Kiếp Hóa Kỵ khi âm và âm cộng hưởng. Bạn đố kỵ nhưng bất lực vì Triệt Lực Sỹ, Triệt là bất. Bạn đố kỵ nhưng vô năng vì vô là Tuần, Tuần Kình Dương. Bạn hiểu hơn về Tòan Không Cách với chìa khóa âm dương, bài viết cần 3 năm để thay đổi nhận thức của cộng đồng. Khi trời cao ban gió cả, đón được tùy cánh buồm.
Phi thường cách này chưa biết có thật hay không, nhưng qua đó thấy được quan điểm hết sức nhất quán, thậm chí cực đoan của Thái Thứ Lang về miếu hãm. Miếu là tốt, còn hãm là xấu. Hợp hay không hợp hậu xét.
Cách cục Tham Hỏa cung vậy, luôn nhắc nhở là Tham Hỏa tứ mộ miếu địa, và phải đồng cung (Quý cách thứ 9, trong mục XX Phân Cục). Nếu để ý điều này, có lẽ bớt được câu hỏi Liêm Tham tị hợi gặp Hỏa đồng cung có tính không, hay Hỏa Tinh chiếu hợp có tính không.
Trung cách được nhấn mạnh là mệnh cục tương khắc, âm dương nghịch lý, và không có Khoa Quyền Lộc. Nhưng âm dương nghịch lý rồi thì ta lưu ý là không có cách cục Long Phượng. Cho nên những cách cục TPVT Long Phượng, SPT Long Phượng, Đồng Long Phượng, CNĐL Long Phượng là cách ảo, không hề có. Như cách k. Thiên Đồng hội Long Phượng Hình Diêu Hồng Đào là cách ảo vì Long Phượng không bao giờ đi cùng Hồng Đào, cho dù muốn mệnh Long Phượng, thân Hồng Đào cũng không có. Nên đành phải hiểu là Long Phượng hoặc Hồng Đào.
Lại nói về quan điểm sát tinh miếu địa có tốt không. Thì ngay lập tức có ví dụ. Trong 27 Quý Cục, thì cục số 20 là Kình Dương nhập miếu. Điều kiện rất ngặt nghèo Kình tứ mộ của tuổi tứ mộ. Ta hiểu là Kình Dương miếu địa cùng Thái Tuế đồng cung. Cho thấy, với sát tinh miếu địa thì đánh giá cũng không hề xấu. Nhưng không hề có Quý Cục Đà La nhập miếu, cho thấy rõ ràng có sự ưu ái giữa sao dương và sao âm. Trong 27 quý cục thì có 2 cục có sự góp mặt của 2 sát tinh thì đều là sát tinh dương Hỏa Tinh và Kình Dương. Ẩn tàng ý tứ cho rằng, chỉ có sao dương mới có thể tạo nên phản cách mạnh mẽ. Như người nghèo thì phải thông minh và mạnh mẽ mới có thể vươn lên nắm giữ vận mệnh của chính mình và sơn hà. Nếu cứ thuận theo ý của kẻ trên thì mãi mãi không thoát khỏi kiếp nghèo. Con ông cháu cha sinh ra sẵn nong sẵn né như Bạc Qua Qua nói bừa cũng thành hay, chỉ cần làm người tử tế biết điều đã có tầm vóc như anh hùng. Còn những đứa con thảo dã, thậm chí da đen như ngoại trưởng Rice nếu không nỗ lực gấp nhiều lần người khác thì cả đời không ngóc lên được.
Trong phần phụ luận còn nói thêm, với Quý cục số 9 Tham Hỏa tương phùng tứ mộ, số 20 Kình Dương nhập miếu tứ mộ, và số 16 Tham Vũ sửu hoặc Thiên Phủ mùi giáp Nhật Nguyệt thì không e ngại sát tinh, nếu có cũng không giảm sự tốt đẹp, mà nếu sát đinh sáng sủa tốt đẹp thì lại càng rực rỡ. Tất nhiên, quý cục không thể vắng bóng Khoa Quyền Lộc.
Tiếp tục so về âm dương của sát tinh cho bạn thấy rõ phản cách của sát tinh dương. Mệnh chủ tư tưởng, thân chủ thành động. Tính của mệnh gần Địa Không hơn Địa Kiếp vì Địa Không cũng chủ tư tưởng hơn hành động. Địa Kiếp thì chủ hành động hơn tư tưởng. Cho nên Địa Không hợp mệnh còn Địa Kiếp hợp thân.
Nếu Mệnh Không Thân Kiếp, có thể coi là thuận lý âm dương và có phản cách cho trường hợp VCD song Hao (tức tránh Lộc Tồn) thì học ít nhưng sự nghiệp hiển hách.
Nhưng với mệnh Kiếp thân Không tức nghịch lý âm dương thì khá khẩm nhất của cách cục là khi Tử Vi hoặc Nhật Nguyệt sáng sủa tọa thủ mới được no cơm ấm áo, chứ không có cơ phản cách hiển hách như trường hợp trên.
Cho thấy xét đóan vẫn lấy cung mệnh làm chủ yếu so với thân. Hơn nữa, khi Địa Không đóng mệnh còn hi vọng, chứ Địa Kiếp đóng mệnh thì chỉ mong lắm đế tinh đóng vào để được trung bình là khá rồi. Cho thấy đặc tính kỳ lạ sau: phải chăng Tử Vi Nhật Nguyệt không ngại Kiếp mà ngại Không ?
Trường hợp mệnh Không thân Kiếp mang bóng dáng của mệnh Triệt thân Tuần khi có thể cùng cung Vô Chính Diệu tạo thành phản cách. Nhưng mệnh Tuần thân Triệt thì không hề cùng cung Vô Chính Diệu tạo ra phản cách. Phải chăng Vô Chính Diệu thích Triệt hơn Tuần ? Mệnh Không thân Kiếp không hợp Đồng Lương. Mệnh Triệt thân Tuần cũng không hợp Cơ Nguyệt Đồng Lương mà hợp VCD. Điều này càng khẳng định sự tương ứng giữa Mệnh Không thân Kiếp và mệnh Triệt thân Tuần. Phải chăng Triệt hợp với Không còn Tuần hợp với Kiếp ? Vậy mà trước nay tôi vẫn hi vọng Tuần hợp với Địa Không hơn, còn Triệt hợp với Địa Kiếp hơn. Tuần Triệt, sao nào dương sao nào âm ?
(Bài này lưu ý quý độc giả nào công lực thấp không nên đọc để tránh tẩu hỏa)
Tiếp tục, bàn về tính âm dương của Tuần Triệt.
Phủ ngại Tuần, Tướng ngại Triệt. Tất nhiên, cả hai chẳng ưa gì Tuần Triệt, ở đây chỉ cân phân cụ thể hơn.
Địa Không ngại Tuần, Địa Kiếp ngại Triệt.
Giữa Phủ với Tướng thì Phủ dương, Tướng âm. Giữa Không với Kiếp thì Không dương đi nghịch, Kiếp âm đi thuận. Nếu vậy, Tuần phá dương còn Triệt phá âm. Chúng phá đúng theo tính âm dương của chúng. Điều này tương hợp với quan điểm của Việt Viêm Tử rằng Tuần Triệt đóng hai cung nhưng tác dụng lên hai cung là khác nhau. Tuy nhiên không tương đồng vì ở đây đang so sánh Tuần với Triệt.
Giờ quay lại xem vì sao Mệnh Tuần thân Triệt cần Cơ Nguyệt Đồng Lương. Vì Tuần (lấy mệnh làm chủ) dương không phá bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương âm. Nhưng mệnh Triệt âm thì cần Vô Chính Diệu chứ không hợp Cơ Nguyệt Đồng Lương. Như các bai trên ta hiểu Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Tham không sợ Kỵ mà chỉ sợ Tuần Triệt, còn Cơ Nguyệt Đồng Lương ngược lại chỉ sợ Kỵ mà chẳng ngại Tuần Triệt. Cho nên ở đây mới cho Cơ Nguyệt Đồng Lương làm cứu cánh cho trường hợp Triệt Tuần. Chẳng qua khi mệnh Triệt, nếu có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì âm phá âm nên hỏng cách, đành phải dùng VCD.
Nhưng với mệnh Không thân Kiếp, Địa Không dương chẳng hợp Cơ Nguyệt Đồng Lương âm cho nên mệnh Không thân Kiếp không hợp Cơ Nguyệt Đồng Lương vì dương chẳng hợp âm.
Đến đây, thấy rõ một quy luật nữa của tử vi là tương tác tinh đẩu với tinh đẩu cần cùng tính âm dương mới cho hiệu quả rõ rệt. Nhưng tương tác của Không Vong thì ngược lại. Cho nên, nói Tuần Triệt phá sao nào đó thì đúng. Nhưng nói Không Kiếp phá sao nào đó thì không đúng, mà là Không Kiếp chẳng hợp sao đó.
Lý âm dương bày ra rất chặt chẽ.
Bạn vào topic, đến giờ bạn hiểu vì sao cung quan của Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm VCD có Địa Không gặp Triệt lại đắc cách. Triệt chứ không phải Tuần. Trước đây, bạn xem nháo nhào, bạn viết sách, bạn thánh phán, nhưng bạn không cân phân nổi tính âm dương. Mà không ai nhắc đến nó cho bạn hiểu khi bài viết này ra đời. Nó là yếu quyết thượng thừa của âm dương. Tuần thuộc dương, bạn vẽ dấu cộng, Tuần là cộng. Triệt là âm, bạn vẽ dấu trừ, Triệt là trừ. Phía trên bạn hiểu VCD hợp Triệt hơn Tuần, đến giờ bạn hiểu thêm Triệt là đóng, vì đóng nên ngôi nhà trống vô chính diệu đã có cửa không còn trống nữa. Qua đó, bạn hiểu thêm Tuần là mở. Nghe sao giống Triệt là tách ra, Tuần là gom vào, mà lại rất hợp lý. Bạn hiểu vì sao lá số Lý Tiểu Long cung mệnh có Địa Không gặp Triệt.
Bạn vào topic bạn Không đồng ý, nhưng bạn không ghét vì Địa Không Hóa Kỵ khi sao dương gặp sao âm. Bạn vào topic bạn không hiểu, nhưng lại đố kỵ vì Địa Kiếp Hóa Kỵ khi âm và âm cộng hưởng. Bạn đố kỵ nhưng bất lực vì Triệt Lực Sỹ, Triệt là bất. Bạn đố kỵ nhưng vô năng vì vô là Tuần, Tuần Kình Dương. Bạn hiểu hơn về Tòan Không Cách với chìa khóa âm dương, bài viết cần 3 năm để thay đổi nhận thức của cộng đồng. Khi trời cao ban gió cả, đón được tùy cánh buồm.
Subscribe to:
Posts (Atom)