Sách Tử Vi Đẩu Số Tân Biên, mục XVIII Phụ Luận về Mệnh Thân, phần D. Phi thường cách của Thái Thứ Lang cho rằng "Mệnh thân lại được thêm sự phù tá của các sao đắc địa: Tả Hữu Khôi Việt Xương Khúc Long Phượng Hồng Đào Khoa Lộc và Kình Đà Không Kiếp Hình Hổ." Tức là tác giả cũng thừa nhận trong các cường cung phải có sát tinh thậm chí Thiên Hình. Tuy tác giả không kể đến Hỏa Linh, nhưng theo tính toán trên ta thấy có Hỏa Linh. Có nghĩa là, quan điểm về phi thường cách không phải không có sát hình tinh. Mà quan trọng nhất lá số phải có bộ khung vững chắc, sau đó điểm xuyết sát tinh vào mới đúng là phi thường cách. Có lẽ phi thường cách khác Thượng cách ở điểm này. Nhưng nhấn mạnh lại là tác giả yêu cầu các sát tinh phải đắc địa, không được hãm địa. Thái Thứ Lang không nhắc tới tuần triệt nhưng theo tính toán ta biết Tuần Triệt án ngữ chặt chẽ ở tam hợp cung an thân.
Phi thường cách này chưa biết có thật hay không, nhưng qua đó thấy được quan điểm hết sức nhất quán, thậm chí cực đoan của Thái Thứ Lang về miếu hãm. Miếu là tốt, còn hãm là xấu. Hợp hay không hợp hậu xét.
Cách cục Tham Hỏa cung vậy, luôn nhắc nhở là Tham Hỏa tứ mộ miếu địa, và phải đồng cung (Quý cách thứ 9, trong mục XX Phân Cục). Nếu để ý điều này, có lẽ bớt được câu hỏi Liêm Tham tị hợi gặp Hỏa đồng cung có tính không, hay Hỏa Tinh chiếu hợp có tính không.
Trung cách được nhấn mạnh là mệnh cục tương khắc, âm dương nghịch lý, và không có Khoa Quyền Lộc. Nhưng âm dương nghịch lý rồi thì ta lưu ý là không có cách cục Long Phượng. Cho nên những cách cục TPVT Long Phượng, SPT Long Phượng, Đồng Long Phượng, CNĐL Long Phượng là cách ảo, không hề có. Như cách k. Thiên Đồng hội Long Phượng Hình Diêu Hồng Đào là cách ảo vì Long Phượng không bao giờ đi cùng Hồng Đào, cho dù muốn mệnh Long Phượng, thân Hồng Đào cũng không có. Nên đành phải hiểu là Long Phượng hoặc Hồng Đào.
Lại nói về quan điểm sát tinh miếu địa có tốt không. Thì ngay lập tức có ví dụ. Trong 27 Quý Cục, thì cục số 20 là Kình Dương nhập miếu. Điều kiện rất ngặt nghèo Kình tứ mộ của tuổi tứ mộ. Ta hiểu là Kình Dương miếu địa cùng Thái Tuế đồng cung. Cho thấy, với sát tinh miếu địa thì đánh giá cũng không hề xấu. Nhưng không hề có Quý Cục Đà La nhập miếu, cho thấy rõ ràng có sự ưu ái giữa sao dương và sao âm. Trong 27 quý cục thì có 2 cục có sự góp mặt của 2 sát tinh thì đều là sát tinh dương Hỏa Tinh và Kình Dương. Ẩn tàng ý tứ cho rằng, chỉ có sao dương mới có thể tạo nên phản cách mạnh mẽ. Như người nghèo thì phải thông minh và mạnh mẽ mới có thể vươn lên nắm giữ vận mệnh của chính mình và sơn hà. Nếu cứ thuận theo ý của kẻ trên thì mãi mãi không thoát khỏi kiếp nghèo. Con ông cháu cha sinh ra sẵn nong sẵn né như Bạc Qua Qua nói bừa cũng thành hay, chỉ cần làm người tử tế biết điều đã có tầm vóc như anh hùng. Còn những đứa con thảo dã, thậm chí da đen như ngoại trưởng Rice nếu không nỗ lực gấp nhiều lần người khác thì cả đời không ngóc lên được.
Trong phần phụ luận còn nói thêm, với Quý cục số 9 Tham Hỏa tương phùng tứ mộ, số 20 Kình Dương nhập miếu tứ mộ, và số 16 Tham Vũ sửu hoặc Thiên Phủ mùi giáp Nhật Nguyệt thì không e ngại sát tinh, nếu có cũng không giảm sự tốt đẹp, mà nếu sát đinh sáng sủa tốt đẹp thì lại càng rực rỡ. Tất nhiên, quý cục không thể vắng bóng Khoa Quyền Lộc.
Tiếp tục so về âm dương của sát tinh cho bạn thấy rõ phản cách của sát tinh dương. Mệnh chủ tư tưởng, thân chủ thành động. Tính của mệnh gần Địa Không hơn Địa Kiếp vì Địa Không cũng chủ tư tưởng hơn hành động. Địa Kiếp thì chủ hành động hơn tư tưởng. Cho nên Địa Không hợp mệnh còn Địa Kiếp hợp thân.
Nếu Mệnh Không Thân Kiếp, có thể coi là thuận lý âm dương và có phản cách cho trường hợp VCD song Hao (tức tránh Lộc Tồn) thì học ít nhưng sự nghiệp hiển hách.
Nhưng với mệnh Kiếp thân Không tức nghịch lý âm dương thì khá khẩm nhất của cách cục là khi Tử Vi hoặc Nhật Nguyệt sáng sủa tọa thủ mới được no cơm ấm áo, chứ không có cơ phản cách hiển hách như trường hợp trên.
Cho thấy xét đóan vẫn lấy cung mệnh làm chủ yếu so với thân. Hơn nữa, khi Địa Không đóng mệnh còn hi vọng, chứ Địa Kiếp đóng mệnh thì chỉ mong lắm đế tinh đóng vào để được trung bình là khá rồi. Cho thấy đặc tính kỳ lạ sau: phải chăng Tử Vi Nhật Nguyệt không ngại Kiếp mà ngại Không ?
Trường hợp mệnh Không thân Kiếp mang bóng dáng của mệnh Triệt thân Tuần khi có thể cùng cung Vô Chính Diệu tạo thành phản cách. Nhưng mệnh Tuần thân Triệt thì không hề cùng cung Vô Chính Diệu tạo ra phản cách. Phải chăng Vô Chính Diệu thích Triệt hơn Tuần ? Mệnh Không thân Kiếp không hợp Đồng Lương. Mệnh Triệt thân Tuần cũng không hợp Cơ Nguyệt Đồng Lương mà hợp VCD. Điều này càng khẳng định sự tương ứng giữa Mệnh Không thân Kiếp và mệnh Triệt thân Tuần. Phải chăng Triệt hợp với Không còn Tuần hợp với Kiếp ? Vậy mà trước nay tôi vẫn hi vọng Tuần hợp với Địa Không hơn, còn Triệt hợp với Địa Kiếp hơn. Tuần Triệt, sao nào dương sao nào âm ?
(Bài này lưu ý quý độc giả nào công lực thấp không nên đọc để tránh tẩu hỏa)
Tiếp tục, bàn về tính âm dương của Tuần Triệt.
Phủ ngại Tuần, Tướng ngại Triệt. Tất nhiên, cả hai chẳng ưa gì Tuần Triệt, ở đây chỉ cân phân cụ thể hơn.
Địa Không ngại Tuần, Địa Kiếp ngại Triệt.
Giữa Phủ với Tướng thì Phủ dương, Tướng âm. Giữa Không với Kiếp thì Không dương đi nghịch, Kiếp âm đi thuận. Nếu vậy, Tuần phá dương còn Triệt phá âm. Chúng phá đúng theo tính âm dương của chúng. Điều này tương hợp với quan điểm của Việt Viêm Tử rằng Tuần Triệt đóng hai cung nhưng tác dụng lên hai cung là khác nhau. Tuy nhiên không tương đồng vì ở đây đang so sánh Tuần với Triệt.
Giờ quay lại xem vì sao Mệnh Tuần thân Triệt cần Cơ Nguyệt Đồng Lương. Vì Tuần (lấy mệnh làm chủ) dương không phá bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương âm. Nhưng mệnh Triệt âm thì cần Vô Chính Diệu chứ không hợp Cơ Nguyệt Đồng Lương. Như các bai trên ta hiểu Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Tham không sợ Kỵ mà chỉ sợ Tuần Triệt, còn Cơ Nguyệt Đồng Lương ngược lại chỉ sợ Kỵ mà chẳng ngại Tuần Triệt. Cho nên ở đây mới cho Cơ Nguyệt Đồng Lương làm cứu cánh cho trường hợp Triệt Tuần. Chẳng qua khi mệnh Triệt, nếu có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì âm phá âm nên hỏng cách, đành phải dùng VCD.
Nhưng với mệnh Không thân Kiếp, Địa Không dương chẳng hợp Cơ Nguyệt Đồng Lương âm cho nên mệnh Không thân Kiếp không hợp Cơ Nguyệt Đồng Lương vì dương chẳng hợp âm.
Đến đây, thấy rõ một quy luật nữa của tử vi là tương tác tinh đẩu với tinh đẩu cần cùng tính âm dương mới cho hiệu quả rõ rệt. Nhưng tương tác của Không Vong thì ngược lại. Cho nên, nói Tuần Triệt phá sao nào đó thì đúng. Nhưng nói Không Kiếp phá sao nào đó thì không đúng, mà là Không Kiếp chẳng hợp sao đó.
Lý âm dương bày ra rất chặt chẽ.
Bạn vào topic, đến giờ bạn hiểu vì sao cung quan của Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm VCD có Địa Không gặp Triệt lại đắc cách. Triệt chứ không phải Tuần. Trước đây, bạn xem nháo nhào, bạn viết sách, bạn thánh phán, nhưng bạn không cân phân nổi tính âm dương. Mà không ai nhắc đến nó cho bạn hiểu khi bài viết này ra đời. Nó là yếu quyết thượng thừa của âm dương. Tuần thuộc dương, bạn vẽ dấu cộng, Tuần là cộng. Triệt là âm, bạn vẽ dấu trừ, Triệt là trừ. Phía trên bạn hiểu VCD hợp Triệt hơn Tuần, đến giờ bạn hiểu thêm Triệt là đóng, vì đóng nên ngôi nhà trống vô chính diệu đã có cửa không còn trống nữa. Qua đó, bạn hiểu thêm Tuần là mở. Nghe sao giống Triệt là tách ra, Tuần là gom vào, mà lại rất hợp lý. Bạn hiểu vì sao lá số Lý Tiểu Long cung mệnh có Địa Không gặp Triệt.
Bạn vào topic bạn Không đồng ý, nhưng bạn không ghét vì Địa Không Hóa Kỵ khi sao dương gặp sao âm. Bạn vào topic bạn không hiểu, nhưng lại đố kỵ vì Địa Kiếp Hóa Kỵ khi âm và âm cộng hưởng. Bạn đố kỵ nhưng bất lực vì Triệt Lực Sỹ, Triệt là bất. Bạn đố kỵ nhưng vô năng vì vô là Tuần, Tuần Kình Dương. Bạn hiểu hơn về Tòan Không Cách với chìa khóa âm dương, bài viết cần 3 năm để thay đổi nhận thức của cộng đồng. Khi trời cao ban gió cả, đón được tùy cánh buồm.
No comments:
Post a Comment